Lịch sử Châu_Mỹ

Bài chi tiết: Lịch sử châu Mỹ

Trong tác phẩm "Luận thuyết thứ hai về chính quyền dân sự", John Locke đã viết "Ở thời kỳ khởi đầu thì cả thế giới đều như châu Mỹ". Locke đã dùng phép ẩn dụ nêu trên chỉ để miêu tả 1 xã hội tự nhiên từng tồn tại trước khi xuất hiện một xã hội công dân. Tuy nhiên lối nói ẩn dụ của ông còn gợi lên 1 hình ảnh của 1 châu Mỹ lần đầu tiên được người châu Âu phát hiện.

Định cư

Các chi tiết về việc những người Indien cổ đã di cư đến và tỏa ra khắp châu Mỹ vào khoảng thời gian và bằng tuyến đường nào vẫn còn là chủ đề tranh luận.[6] Các lý thuyết truyền thống cho rằng những người này đã đến châu Mỹ bằng cầu lục địa Beringia giữa đông SiberiAlaska ngày nay vào khoảng từ 40.000-17.000 năm trước,[7] khi mực nước biển bị giám xuống đáng kể do ảnh hưởng của kỷ băng hà Đệ Tứ.[6][8] Những người này được cho là đã đi theo các loài động vật cực to lớn mà nay đã tuyệt chủng theo các hành lang không bị đóng băng kéo dài giữa các phiến băng Laurentide và Cordillera.[9] và rồi họ tiếp tục đi bộ hoặc sử dụng các tàu thuyền nguyên sơ để di cư từ Tây Bắc Thái Bình Dương (phía Tây Bắc Mỹ) đến bờ biển Nam Mỹ.[10] Bằng chứng của sự kiện về sau có được khi mực nước biển dâng lên hàng trăm mét sau kỉ băng hà cuối cùng.[11]

Các nhà khảo cổ cho rằng những người Indien cổ đã di cư ra khỏi Beringia (Đông Alaska), đến một nơi nào đó trong khoảng từ 40.000-16.500 năm trước.[12][13][14] Một vài đồng thuận đạt được cho đến nay là những người này có nguồn gốc từ Trung Á, và đã cư trú rộng rãi ở châu Mỹ vào cuối của kỷ băng hà cuối cùng, khoảng 16.000-13.000 năm trước.[14][15]

Người Inuit di cư đến phần Bắc Cực của Bắc Mỹ theo 1 làn sóng di cư khác, và họ đến vào khoảng năm 1000 SCN.[16] Cùng với thời điểm người Inuit di cư đến Bắc Mỹ, những người định cư Viking bắt đầu tới Greenland vào năm 982Vinland một thời gian ngắn sau đó,lập nên 1 khu định cư tại L'Anse aux Meadows, gần điểm cực Bắc của Newfoundland.[17] Những người định cư Viking nhanh chóng rời bỏ Vinland, và biến mất khỏi Greenland vào năm 1500.[18]

Thời kỳ tiền Colombo

Parkin tại Arkansas, khoảng 1539. Herb Roe minh họa.

Thời kỳ tiền Colombo bao gồm tất cả các phân tầng thời gian của lịch sử châu Mỹ trước khi sự xuất hiện của người châu Âu gây nên ảnh hưởng đáng kể cho châu lục, kéo dài từ thời từ các khu định cư Thượng Cổ đến thời kỳ thực dân châu Âu.

"Tiền Colombo" đặc biệt được sử dụng trong các ngữ cảnh để chỉ về nền văn minh bản địa lớn của châu Mỹ, như Mesoamerica (Olmec, Toltec, Teotihuacano, Zapotec, Mixtec, Aztec, Maya) và Andes (Inca, Moche, Muisca, Cañaris).

Nhiều nền văn minh thời kỳ Tiền-Colombo được hình thành dựa trên các đặc điểm và dấu hiệu như các điểm định cư lâu dài hay đô thị, nông nghiệp, các kiến trúc đô thị và tưởng niệm, cùng các hệ thống thứ bậc xã hội phức tạp. Một số nền văn minh từ lâu đời đã tàn phai khi những người châu Âu đầu tiên đến (cuối thế kỷ XV - đầu thế kỷ XVI), và chỉ được biến đến thông qua khảo cổ. Nhưng cũng có những nền văn minh vào thời điểm đó. Một vài nền văn minh như Maya, có các tư liệu bằng chữ viết. Tuy nhiên, hầu hết những người châu Âu khi đó coi các văn bản này là dị giáo, và nhiều trong số đó đã bị tiêu hủy trên những giàn thiêu Thiên Chúa giáo. Chỉ còn một số ít tài liệu còn lại đến ngày nay, giúp cho các sử gia hiện đại có cái nhìn khái quát về văn hóa và các kiến thức cổ.[19]

Theo cả các ghi chép của dân bản địa châu Mỹ và người châu Âu, các nền văn minh châu Mỹ vào thời điểm tiếp xúc với người Âu đã đạt được nhiều thành tựu ấn tượng. Chẳng hạn, người Aztec đã xây dựng nên một trong những thành phố nguy nga nhất thế giới là Tenochtitlan, tại nơi mà nay là thành phố México, với dân số ước tính là 200.000 người. Các nền văn minh châu Mỹ cũng có những thành tựu ấn tượng về thiên văn học và toán học.[20]

Thực dân hóa

Quá trình thực dân hóa của người châu Âu đã bắt đầu ngay sau chuyến đi đầu tiên của Cristoforo Colombo vào năm 1492. Điểm định cư đầu tiên của người Tây Ban Nha tại châu Mỹ là La Isabela ở miền Bắc Hispaniola. Đô thị này đã bị bỏ hoang sớm sau đó khi thành lập Santo Domingo de Guzmán năm 1496, thành phố cổ nhất do người châu Âu lập nên tại châu Mỹ. Nơi này trở thành căn cứ và từ đó chế độ quân chủ Tây Ban Nha quản lý các thuộc địa và mở rộng lãnh địa của mình. Trên lục địa, thành phố Panama bên bờ biển Thái Bình Dương được hình thành vào ngày 5/8/1519, đóng 1 vai trò quan trọng, và là cơ sở để thực dân Tây Ban Nha xâm chiếm Nam Mỹ. Theo nhà nhân chủng học R. Thornton, sự lây lan của các bệnh dịch mới do người châu Âu và châu Phi đem tới đã giết chết nhiều cư dân tại châu Mỹ.[21][22][23] Người bản địa và thực dân châu Âu xảy ra xung đột trên diện rộng, kết quả dẫn đến điều mà David Stannard gọi là 1 cuộc diệt chủng dân bản địa.[24] Những người di cư châu Âu đầu tiên là 1 phần của nỗ lực cấp nhà nước nhằm thành lập các thuộc địa tại châu Mỹ. Những người di cư tiếp tục di cư đến châu Mỹ nhắm trốn tránh các cuộc đàn áp tôn giáo hoặc tìm kiếm cơ hội về kinh tế. Trong khi đó, hàng triệu người đã bị buộc đưa đến châu Mỹ với thân phận nô lệ, tù nhân hay lao động giao kèo.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Châu_Mỹ http://www.paginadigital.com.ar/articulos/2008/200... http://www.abc.net.au/worldtoday/content/2005/s134... http://www.cbc.ca/montreal/features/religion/chris... http://www.civilization.ca/cmc/education/teacher-r... http://www.civilization.ca/cmc/education/teacher-r... http://www.evergreen.ca/nativeplants/learn-more/ar... http://www.pc.gc.ca/eng/docs/r/pfa-fap/sec1.aspx http://redpath-museum.mcgill.ca/Qbp/Natural%20Hist... http://www.statcan.ca/Daily/English/030513/d030513... http://www40.statcan.ca/l01/cst01/demo30a.htm?sdi=...